Cá mú cọp là loài cá mú có thân phủ các vảy tròn (ở cá mú cọp nhỏ là vảy lược). Cá có chiều dài thân bằng khoảng 2,6 đến 2,9 lần chiều cao thân. Nhìn ngang mặt lưng, phần đầu của cá lồi phía trên khoảng cách giữa 2 mắt. Đoạn giữa hàm dưới có 3 hàng răng. Ở cá mú trưởng thành, lỗ mũi sau có dạng tam giác, lớn bằng khoảng 4 lần lỗ mũi trước. Vây đuôi cá mú có dạng tròn.
Thân cá mú cọp thường có màu nâu pha vàng nhạt. Chúng có các vết lớn không đều, màu nâu ở đầu và thân, các vết đen nhạt dài ở lưng. Có một vết đen hình yên ngựa trên bắp đuôi. Đầu, thân và các vây có nhiều chấm nâu – đen nhỏ phân bố rất đều. Khác với cá mú nghệ, cá mú cọp là loại có kích thước trung bình, thường vào khoảng từ 600 mm đến 700 mm, lớn nhất là 1200 mm. Nơi sống của cá mú cọp thường là các rạn san hô và nền đáy đá có độ sâu 60 m. Cá nhỏ phát hiện được trong các thảm cỏ biển (seagrass). Thức ăn thường thấy là các loài cá nhỏ, cua và mực. Tại Việt Nam, các ngư dân thường tìm thấy chúng tại các vùng biển Thừa Thiên Huế, dọc vùng biển Trung Bộ đến Nam Bộ và quần đảo Trường Sa. Trên thế giới xuất hiện tại vùng biển các nước Đông Nam Á như Singapore, Thái Lan, Indonesia, Philippines. Đông Á: Trung Quốc, Nhật Bản. Ngoài ra còn có ở New Guinea, Samoa, Ấn Độ, Australia, Biển Đỏ và Đông Châu Phi. Giá trị kinh tế Cá mú cọp có thịt chắc, ngọt nên rất được thị trường tiêu dùng trong nước ưa chuộng. Đây cũng là loài cá mú đóng vai trò chủ đạo trong việc lai tạo ra loài cá mú trân châu
CS1: Chợ Long Biên, Hoàn Kiếm, HN
CS2: Nguyễn Chính, Hoàng Mai, HN